Giải pháp quản lý bệnh đạo ôn và cháy bìa lá

Bệnh đạo ôn và bệnh do vi khuẩn (cháy bìa lá, lép vàng, thối gốc) khi xuất hiện tấn công cùng lúc sẽ gây thiệt nặng nề cho cây lúa

Bệnh đạo ôn: Tác nhân do nấm Pyricularia oryzae, gây hại ở tất cả các giai đoạn và bộ phận của cây lúa, phát sinh từ thời kỳ mạ đến lúa chín và gây hại ở bẹ lá, lá, lóng thân, cổ bông, gié và hạt.

Bệnh đạo ôn
Bệnh đạo ôn

Vết bệnh điển hình trên lá có dạng hình thoi, ở giữa màu xám hoặc trắng, xung quanh viền nâu hay nâu đỏ, có thể liên kết lại tạo thành mảng cháy lớn, giai đoạn mạ làm chết lụi từng đám.

Trên cổ lá phần tiếp giáp giữa phiến lá và bẹ lá bị thối. Trên thân bệnh gây hại ở đốt, đốt thân có màu nâu, khô teo lại, cây lúa dễ bị gãy gục. Trên cổ bông – cổ gié, bệnh xảy ra ngay đốt dưới làm bông và gié dễ gãy. Trên hạt thì vỏ hạt bị bệnh có vết màu nâu hay đen.

Bệnh đạo ôn và bệnh do vi khuẩn nếu không quản lý tốt sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến năng suất và chất lượng lúa. Cần thường xuyên thăm đồng để phát hiện sớm và chủ động kết hợp biện pháp canh tác và biện pháp hoá học để mang lại hiệu quả cao.

Bệnh cháy bìa lá do vi khuẩn: Tác nhân do vi khuẩn Xanthomonas oryzae, xuất hiện đồng đều trên đồng ruộng, thường gặp trong mùa mưa, nhất là sau đợt mưa bão. Bệnh làm lúa bị khô và chết sớm, làm giảm khả năng quang hợp, hạt lúa bị lép, lửng, dẫn đến lúa thất thu năng suất.

Bệnh cháy bìa lá
Bệnh cháy bìa lá

Bệnh cháy lá có khả năng gây hại nặng cho cây lúa ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây lúa từ giai đoạn mạ cho đến khi lúa chín. Ngoài ra, mầm bệnh còn có thể tấn công tất cả các bộ phận của cây lúa trên mặt đất như: lá, cổ lá, đốt thân, cổ bông và hạt. Thông thường người ta dựa vào bộ phân cây lúa bị mầm bệnh tấn công để goi tên cho bệnh; chẳn hạn khi mầm bệnh tấn công trên lá và biểu hiện ra triệu chứng trên lá thì gọi là bệnh đạo ôn lá hay bệnh cháy lá, còn nếu mầm bệnh tấn công ở cổ bông và biểu biện triệu chứng ở cổ bông thì gọi là đạo ôn cổ bông,... Bệnh đạo ôn có thể xảy ra quanh năm và thường gây hại nặng vào vụ Đông Xuân hàng năm. Bệnh hình thành phát triển mạnh trong điều kiện khí hậu mát mẻ, sự chênh lệch của nhiệt độ ngày và đêm cao; trong ngày trời nắng, mưa xen kẽ, có nhiều sương mù; ruộng sạ dày, trồng giống nhiễm, bón phân thừa đạm, ruộng khô,...

Bệnh có thể lây lan rất nhanh, do mầm bệnh (bào tử nấm) rất nhỏ nên có thể phát tán rất xa (khoảng 10 cây số) và trên diện rộng nhờ gió. Ngoài ra, mầm bệnh cháy lá lưu tồn và gây hại cho cây lúa qua các vụ canh tác trên ruộng thông qua các ký chủ là rơm rạ, lúa chét, lúa rài kể cả các loại cỏ dại mọc ven ruộng như cỏ lồng vực, cỏ đuôi phụng, cỏ chỉ…

Triệu chứng bệnh đầu tiên thể hiện trên lá là những vết màu nâu nhỏ như đầu mũi kim, sau lan dần tạo thành những vết bệnh có hình như con mắt hình thoi (mắt én), phần giữa vết bệnh có tâm màu xám trắng, rìa có màu nâu. Nếu quan sát vết bệnh vào sáng sớm, lúc trời còn sương mù, vết bệnh có dạng như bị thấm nước và có màu xám nâu, hoặc xám xanh, đây là vết bệnh đang phát triển và đang sinh thêm mầm bệnh (bào tử). Trên các vết xám xanh có nhiều đốm nhỏ, đó là các cụm mang bào tử của nấm bệnh (PGS.TS. Phạm Văn Kim).

Trên giống nhiễm các vết bệnh liên kết lại với nhau tạo thành các vệt cháy lớn trên lá và làm cháy khô một phần hoặc cả lá, bệnh nặng có thể làm chết cả bụi lúa. Trên cổ lá, vết bệnh lúc đầu cũng có màu xám xanh sau chuyển sang nâu sau đó cả lá đều bị cháy khô. Trên cổ bông, triệu chứng bệnh ban đầu cũng là các vết nâu xám hoặc nâu đen lớn dần và làm cho bông lúa bị lép trắng hoặc các bông lúa bị gãy cổ. Đối với hạt, nếu bị mầm bệnh tấn công hạt sẽ bị lem lép hoặc lửng. Những chân ruộng bị bệnh nặng có thể làm tổn thất năng suất từ 20% - 50%, thậm chí mất trăng. Một số nơi phải trục sạ lại do bệnh quá nặng, cả ruộng lúa bị cháy khô, dù lúa đã sạ được 35 -40 ngày trong vụ hè thu này.

Bệnh thối thân, vàng lá vi khuẩn: Tác nhân do vi khuẩn Erwinia spp gây ra, thường gây hại trên các giống lúa OM4218, OM5472, IR50404… Bệnh nặng khiến lúa bị vàng, đẻ nhánh kém, lúa chết dần theo từng chòm.

Biện pháp phòng trị:

Bệnh đạo ôn (cháy lá) là một trong những bệnh hại quan trọng nhất trên cây lúa hiện nay, do bệnh xuất hiện quanh năm, khả năng lây lan nhanh, tính bộc phát mạnh và gây thiệt hại nghiêm trọng cho đồng lúa khi gặp điều kiện thuận lợi. Vì vậy, để hạn chế sự phát sinh và tác hại của bệnh gây ra cho ruộng lúa chúng ta cần áp dụng đồng bộ một số biện pháp sau:

a. Biện pháp canh tác

- Sau khi thu hoạch lúa, nên rải rơm đốt đồng trước khi làm đất đối với ruộng ở vụ vừa rồi đã bị bệnh nặng hay vùng thường xuyên xuất hiện bệnh hại.

- Cày ải phơi đất, vệ sinh đồng ruộng, phun thuốc diệt sạch cỏ bờ, lúa chét để cắt đứt nguồn lưu tồn mầm bệnh…

- Nên sử dụng giống kháng và cấp giống cần theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp địa phương.

- Xử lý hạt giống trước khi ngâm ủ trong nước ấm 540C trong 10 phút, hoặc dung dịch nước muối (NaCl) 15%, hoặc một số loại thuốc BVTV (ROVRAL 50WP, WORKUP 9SL, VICARBEN 50HP, VIXAZOL 275SC, VIRAM PLUS 500SC,…) thích hợp trước khi gieo sạ, với liều lượng theo khuyến cáo của ngành nông nghiệp địa phương hay nhà sản xuất.

- Nên sạ thưa hoặc sạ lúa theo hàng với mật độ vừa phải (10 – 15kg/1.000m2) cùng với chế độ bón phân cân đối giữa đạm-lân-kali (không bón thừa đạm).

- Thăm đồng thường xuyên nhằm phát hiện bệnh sớm để phòng trị kịp thời.

- Không để trong ruộng bị khô nước vì bệnh có thể bộc phát mạnh ở điều kiện ruộng bị khô.

- Khi ruộng bị bệnh cần giữ đủ nước, đồng thời ngưng bón phân cũng như phun phân bón qua lá, cần tiến hành phun ngay các loại thuốc đặc trị.

- Nên luân canh cây trồng, vật nuôi qua các vụ trong năm, có thể trồng cây trồng cạn hoặc nuôi cá vụ hè thu để cắt đứt nguồn bệnh lây lan có thể phát triển thành dịch.

Ngoài ra, chúng ta có thể sử dụng chất kích kháng SAR3 để hạn chế bệnh đạo ôn theo hướng dẫn sau: Trước khi ngâm ủ, nên gạn lúa giống trong nước muối 15% (thời gian gạn lúa càng nhanh càng tốt) để loại bỏ các hạt lép lửng dễ mang nhiều mầm bệnh. Tiếp theo, lúa giống được rửa sạch nước muối rồi pha 10cc chất kích kháng SAR3 trong 10 lít nước để ngâm 20kg hạt  giống trong thời gian 24 giờ, sau đó vớt ra đem ngâm ủ bình thường cho đến khi mọc mộng thì đem gieo. Tiếp theo, sau khi lúa đã gieo sạ được khoảng 25-30 ngày chúng ta phun SAR3 lần 2, pha 10cc SAR3 trong bình 16 lít phun cho 1 công (1.000m2). Nếu có điều kiện, phun thêm 1 lần kích kháng trước khi cây lúa trỗ bông để hạn chế bệnh đạo ôn cổ bông gây hại.

b. Phòng trừ bằng thuốc hóa học

Khi lúa bị bệnh chúng ta có thể sử dụng một trong số các loại thuốc sau với liều lượng theo khuyến cáo của nhà sản xuất hoặc cán bộ ngành nông nghiệp địa phương để phòng trị như:

+ Nhóm hoạt chất Polyphenol nguồn gốc tự nhiên (sinh học): Chubeca 1.8SL,

+ Nhóm hoạt chất Tricyclazole: Beam, Filia, Blascide, …

+ Nhóm hoạt chất Isoprothiolane: Fuan, Fuji-one, …

+ Nhóm hoạt chất f-thalide: Rabcide,

+ Hoặc các loại thuốc hỗn hợp 2 hoặc 3 nhóm trên có tên thương phẩm: Bump 650WP; Kabim 30EC; FILIA-525EC

Lưu ý:

Cần tiến hành phun thuốc ngay khi bệnh mới xuất hiện để đạt hiệu quả cao. Khi phun nên dùng bình bơm có “béc” tia nhỏ để phun (nên sử dụng cần phun 1 béc nếu phun tay), cần hạ thấp cần phun để thuốc tiếp xúc nhiều với lá và bám dính tốt.  Nên phun thuốc vào trời mát, khô ráo, khi phun thuốc phải tuân thủ theo nguyên tắc "4 đúng": đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng lúc và đúng cách.